Đình Trường Đông được công nhận Di tích Lịch sử - Văn hóa cấp tỉnh theo Quyết định số 269/QĐ-CT, ngày 27/12/2002 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Tây Ninh; tọa lạc tại ấp Trường Ân, xã Trường Đông, thị xã Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh.
Đình Trường Đông được công nhận Di tích Lịch sử - Văn hóa cấp tỉnh theo Quyết định số 269/QĐ-CT, ngày 27/12/2002 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Tây Ninh; tọa lạc tại ấp Trường Ân, xã Trường Đông, thị xã Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh.
NHÂN VẬT - SỰ KIỆN LỊCH SỬ
Theo các vị tiền bối trong ban quí tế thì đình Trường Đông có cách đây hơn trăm năm, đình thờ Thần Hoàng Bổn Cảnh (linh thần), hàng năm tổ chức lễ hội kỳ yên vào ngày 16 tháng 01.
Thời gian trôi đi, bánh xe lịch sử xoay dẫn, đình vẫn uy nghiêm đứng đó chứng kiến biết bao đổi thay của vùng đất Trường Đông từ lúc sơ khai.
Vào giữa thế kỷ 17, đất Tây Ninh là vùng đất hoang vu, người Việt mới bắt đầu đến khai phá. Năm Mậu Dần (1698) chúa Nguyễn Phúc Chu sai tướng Nguyễn Hữu Cảnh đi kinh lược đất chân lạp và thu phục đất Nông Nại làm phủ Gia Định, lập xứ Đồng Nai, làm huyện Phước Long dựng dinh Trấn Biên, lập xứ Sài Côn làm huyện Tân Bình dựng phiên trấn. Lúc này biên trấn gồm cả đất Tây Ninh tên là đạo Quang Phong trong phủ Gia Định.
- Năm 1838 (Minh Mạng thứ 18) đổi phủ Gia Định thành tỉnh Gia Định và đặt thêm phủ Tây Ninh. Phủ Tây Ninh có 02 huyện là Tân Ninh và Quang Hóa, có hai tri huyện trấn nhậm, một ở làng Cẩm Giang và một ở tỉnh lụ Tây Ninh hiện giờ.
- Năm 1861 tỉnh Tây Ninh được sát nhập về Sài Gòn.
- Năm 1890 Pháp cắt một phần đất dọc theo “Rạch Ngã Bát” nhượng cho Cao Miên, ranh giới tỉnh Tây Ninh từ đó trọn vẹn cho đến ngày nay. Thời Pháp thuộc Tây Ninh có 02 quận: Quận Trảng Bàng và quận Thái Bình.
- Năm 1942 quận Thái Bình được đổi tên là quận Châu Thành.
- Năm 1959 chia quận Châu Thành ra làm 02 quận Phước Ninh và Phú Khương.
- Năm 1979 UBND tỉnh Tây Ninh để nghị với Trung ương đổi tên thành huyện Hòa Thành và chia làm 12 xã trong đó có xã Trường Đông cho đến ngày nay.
Trong quá trình khai hoang lập ấp cho quê hương yên bình, nhân dân có được cuộc sống như ngày nay. Đã có biết bao vị anh hùng ngã xuống. Lúc yên bình thì khai khẩn đất hoang, lúc có giặc thì chiêu mộ nghĩa quân lập căn cứ đứng lên chống giặc.
Nếu như ông Trần Văn Thiện có công khai mở vùng đất “Ngũ Long”, ông “Lãnh Binh Két” xây thành Bảo Long Giang để bảo vệ biên giới thì ở vùng Bến Thứ - Trà Vông - Cẩm Giang có 3 anh em họ Huỳnh lập căn cứ kháng Miên, chiến đấu đến hơi thở cuối cùng “Sống làm tướng, thác thành thần” lúc sa cơ thà tử tiết chứ không để giặc bắt.
Và còn không biết bao nhiêu bậc trung can nghĩa khí yêu nước thương dân, hy sinh thân mình bảo vệ quê hương đất nước, mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân, khi mất được phong thần lập miếu, xây đình khói hương thờ phụng, sùng kính muôn đời.
Trên đất Tây Ninh, có những ngôi đình ngoài việc thỉnh sắc phong của các địa phương khác về thờ phụng thì trên địa bàn tỉnh còn có những ngôi đình thờ “Thành Hoàng Bổn Cảnh” không ngoài các vị kể trên. Theo quan niệm đình là biểu tượngcho văn hóa làng xã, mỗi làng thường có một ngôi đình phản ánh đời sống vật chất và tinh thần của cộng đồng cũng như cấu trúc phân tầng làng xã, khi chia làng tách xã thì các địa phương đó cũng lập đình mới để thờ, đình Trường Đông cũng không ngoài ý tưởng đó.
LOẠI DI TÍCH
Như phần sự kiện đã nêu thì đình Trường Đông thuộc loại di tích Lịch sử – kiến trúc.
KHẢO TẢ DI TÍCH
Đình Trường Đông nằm về hướng Tây, trên một gò cao trong khuôn viên mát mẻ, trước là mặt sông Vàm Cỏ Đông quanh năm tàu thuyền tấp nập ngược xuôi.
Theo lời kể của các vị trong ban quý tế thì đình trước kia là một ngôi miếu nhỏ, vách ván, nhưng qua nhiều lần sửa chữa nên có được kiến trúc như ngày nay. Kinh phí sửa chữa đình do quyên góp bởi lòng hảo tâm của nhân dân nên đình được sửa chữa từng phần:
+ Năm 1989 sửa vỏ ca, xây 02 miếu và cửa võng nguyệt đình.
+ Năm 1993 sửa, làm lại bàn thờ thần.
+ Năm 1994 xây cổng đình.
+ Năm 1996 sửa lại toàn bộ vỏ ca và lợp lại ngói.
Kiến trúc đình hình chữ Tam (≡) ba mái song song, kiểu mái bánh ít lợp ngói móc thường gặp ở các đình làng Nam Bộ.
Tổng diện tích được khoanh vùng bảo vệ là 1250m².
1. Ngoại thất:
Cổng đình nằm sát quốc lộ 22B, theo sau con đường đất rộng khoảng 4m chạy thẳng vào khoảng 400m thì đến hông đình, trước sân đình có bàn thờ Thần Nông cao 2m, hai bên là hai ngôi miếu thờ, miếu bên phải thờ Bạch Mã Thái Giám và miếu bên trái thờ Ngũ Hành Nương Nương, sân đình lát gạch tàu 30cm x 30cm.
Toàn bộ cấu trúc đình hình chữ Tam (≡) mái lợp ngói trên bờ nóc là hình ảnh “lưỡng long chầu nậm rượu”, tường xây quanh, ngoài tô rửa quét vôi, với 36 cột gạch 20cm x 20cm. Mặt trước đình được xây kiểu tam quan hình cửa vòm, hành lang rộng 130cm, hai bên hiên rộng 140cm.
Toàn bộ các cột gạch và cột áp tường chống đỡ các vì kèo, xiên, trính… bằng gỗ.
2. Nội thất: Gồm 3 gian nhà và chia ra làm 3 lớp: vỏ ca, chính điện và hậu đình.
a. Võ ca: Có diện tích 62m², chiều cao từ nền đến nóc 510cm, có tứ trụ (4 cột) vuông 35cm x 35cm cao 410cm, nền lát xi măng là nơi hành lễ mỗi khi có lễ hội. Với kết cấu cột, kèo, xiên, trính, chống giữa tạo nét kiến trúc vững chãi.
b. Chính điện:
Có diện tích 70m², đây là nơi trang trọng nhất, được nối với vỏ ca bằng một máng xối. Có chiều cao từ nền đến nóc 580cm, chính điện có tứ trụ tròn 30cm cao 450cm bằng gỗ bào tròn, trên các cột có các câu đối chữ Hán; Chính điện là bàn thờ thần, hai bên là bộ binh khí với 18 món, khám thờ thần có số đo 170cm x 180cm cao 140cm, mặt trước có hình chúa Sơn Lâm được họa tiết tinh xảo tăng thêm phần trang trọng của ngôi thờ thần, hai bên là cặp qui đội hạc đứng chầu có lộng che.
Hai gian bên của ngôi chính điện là bàn thờ tả ban, hữu ban, tiền hiền và hậu hiền có cùng số đo 110cm x 65cm cao 120cm, mặt trước bàn thờ trang trí hoa văn và hình tượng quê hương sông nước, vạn vật sinh sôi nảy nở.
c. Hậu đình: Giống như phần tiếp nối của ngôi vỏ ca và chính điện, hậu đình có chiều cao từ nền đến nóc 510cm, với diện tích 63m², sát tường có bàn thờ Cửu huyền Thất tổ.
CÁC HIỆN VẬT TRONG DI TÍCH
1. Cặp qui đội hạc bằng xi măng.
2. Cặp chân đèn bằng gỗ có niên đại khoảng hơn 100 năm.
3. Trống với chất liệu bằng da, gỗ.
4. Mõ bằng gỗ (một khúc gỗ dài).
GIÁ TRỊ DI TÍCH
1. Giá trị lịch sử văn hóa.
Đình Trường Đông được nhân dân xây dựng nên thờ “Thành Hoàng Bổn Cảnh” những Linh thần có công với dân với nước, những bậc trung can nghĩa khí, là nơi diễn ra các lễ hội dân gian trong các ngày lễ kỷ niệm thỏa mãn đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân. Văn hóa là nền tảng của đời sống tinh thần và vật chất của con người, ngôi đình là nét đẹp văn hóa thông qua biểu hiện vật chất được truyền từ đời này sang đời khác không bị mai một.
Đình Trường Đông đã lưu giữ được giá trị truyền thống ấy, là nhân chứng lịch sử của thời kỳ mở đất và đấu tranh giữ đất của ông cha ta cùng các vị tiền hiền, hậu hiền tiếp bước cùng nhau xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp.
2. Giá trị kiến trúc
Toàn bộ kiến trúc đình hình chữ Tam (≡) đặc trưng của đình làng Nam Bộ, tuy có chỉnh trang hiện đại đôi nét như “Cửa võng nguyệt đình” theo lối kiến trúc Cổ tích nhưng khi đến đình ta cảm nhận được lối kiến trúc độc đáo đặc trưng của các nghệ nhân qua hàng trăm năm vẫn còn tồn tại như thách thức với thời gian.
THÔNG TIN LIÊN HỆ
1/ Ông Hồ Minh Chống (tự 4 Chèo) - Trưởng ban Hội đình Trường Đông
Số điện thoại liên lạc: 0907 585 546
2/ Ông Huỳnh Phi Toàn - Bí thư Đoàn TNCS Hồ Chí Minh xã Trường Đông
Số điện thoại liên lạc: 0971 971 924
ĐỊA ĐIỂM - ĐƯỜNG ĐI
Từ trung tâm Tp.Tây Ninh theo quốc lộ 22B đi hướng Tp.Hồ Chí Minh cây số thứ 13 nhìn phía bên tay phải ta thấy cổng đình "Trường Đông" đi vào khoản 400m thì đến đình. Mọi phương tiện ô tô, mô tô,... đều đi đến di tích dễ dàng, thuận tiện.